Liên kết nhanh
Hỗ trợ trực tuyến
Counselors
+8801770123799
Lịch sử Việt Nam

 

 

Việt Nam nằm trong vùng đất được coi là cái nôi của loài người, là một trong những trung tâm nông nghiệp trồng lúa nước sớm nhất, nơi diễn ra các cuộc cách mạng đồ đá và luyện kim. Trên cơ sở phát triển kinh tế - xã hội thời Đông Sơn và đấu tranh chống thiên tai, giặc ngoài, Nhà nước Văn Lang, nhà nước đầu tiên của Việt Nam được thành lập vào thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên. Với sự chăm chỉ và sáng tạo của mình, cư dân Văn Lang (và sau đó là Âu Lạc) đã tạo ra một nền văn minh có ảnh hưởng đến toàn bộ khu vực Đông Nam Á. Cùng với sự hình thành của Nhà nước đầu tiên trong lịch sử Việt Nam là sự phát triển của một nền kinh tế đa dạng và một nền văn minh tiên tiến được gọi là Văn minh sông Hồng (hay Văn minh Đông Sơn), biểu tượng là trống đồng Đông Sơn, một di sản phản ánh tinh hoa của lối sống, truyền thống và văn hóa của người Việt cổ.
 
 
Trong công cuộc dựng nước, giữ nước, dân tộc Việt Nam đã phải đương đầu với nhiều thế lực ngoại xâm. Trong suốt 12 thế kỷ từ cuộc kháng chiến chống nhà Tần vào thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên cho đến cuối thế kỷ 20, người Việt Nam đã phải phát động hàng trăm cuộc đấu tranh và nổi dậy chống ngoại xâm. Nguyên tắc đặt lực lượng nhỏ yếu trước lực lượng đông hơn, mạnh hơn nhiều đã trở thành quy luật hàng đầu trong các cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc của nhân dân Việt Nam.
 
 
Kể từ thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên, Việt Nam đã bị các triều đại phong kiến ​​Trung Quốc thống trị trong hơn một nghìn năm. Trong thời kỳ này, sự trường tồn của dân tộc đã được thử thách, đã làm nảy sinh tinh thần bất khuất, kiên cường của dân tộc Việt Nam trong cuộc đấu tranh giữ nước, giữ gìn tinh hoa văn hiến và giành độc lập dân tộc.
 
 
Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử Việt Nam - kỷ nguyên phát triển của một nhà nước phong kiến ​​độc lập, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kết quả là, nhà nước hành chính tập trung được thành lập dưới các triều đại Ngô (938-965), Đinh (969-979) và Tiền Lê (980 - 1009).

 

 
Việt Nam bước vào thời kỳ phục hưng và phát triển dưới các triều đại Lý (1009-1226), Trần (1226-1400), Hồ (1400-1407) và Lê Sơ (1428-1527). Đại Việt, tên đất nước dưới các triều đại này, được biết đến là một quốc gia thịnh vượng ở Châu Á. Thời kỳ này đánh dấu thời kỳ vàng son của lịch sử Việt Nam. Về kinh tế, thời kỳ này nông nghiệp, thủy lợi phát triển (với việc đắp đê sông Hồng) và hình thành các làng nghề thủ công truyền thống. Về mặt tôn giáo, tín ngưỡng truyền thống, Phật giáo và Nho giáo được coi là ba tôn giáo chính thức cùng tồn tại. Một thành tựu quan trọng trong triều đại Lý-Trần là sự ra đời của chữ Nôm, hệ thống chữ viết riêng của Việt Nam dựa trên sự cải cách và Việt hóa chữ Hán. Ngoài ra, thời kỳ này còn đánh dấu sự phát triển rực rỡ của giáo dục, khoa học, văn hóa, nghệ thuật, lịch sử và luật pháp (thành lập Văn Miếu - Quốc Tử Giám, bộ luật Hồng Đức, Đại Việt sử ký toàn thư). Thời kỳ này được gọi là Thời đại Văn minh Đại Việt. Thăng Long (tên cũ của Hà Nội) được chính thức công nhận là Kinh đô của Đại Việt theo Chiếu dời đô năm 1010 của Lý Thái Tổ.
 
 
Từ thế kỷ 16, sự lạc hậu, yếu kém của chế độ phong kiến ​​theo tư tưởng Khổng Tử đã bộc lộ. Chế độ phong kiến ​​rơi vào cảnh suy tàn. Trong khi nhiều quốc gia ở châu Âu đang chuyển sang chủ nghĩa tư bản, Đại Việt lại sa lầy vào các cuộc nội chiến và chia rẽ, điều này đã cản trở rất nhiều đến sự phát triển của đất nước mặc dù đã có những bước phát triển nhất định về kinh tế và văn hóa, việc thành lập các thị trấn và hải cảng cũng như tốc độ phát triển nhanh chóng của nội địa và thương mại quốc tế giữa thế kỷ 16 và 18.
 
 
Đầu thế kỷ 19, các nước tư bản phương Tây bước vào thời kỳ đế quốc và thực dân. Thông qua các nhà truyền giáo và thương mại, người Pháp từng bước thống trị Việt Nam. Lần đầu tiên trong lịch sử, Việt Nam phải đương đầu với sự xâm lược của một nước công nghiệp phương Tây. Trong bối cảnh đó, một số trí thức Việt Nam đã nhận thức được việc phải tiến hành công cuộc đổi mới, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng trì trệ, giành độc lập dân tộc. Nhiều kế hoạch cải cách được đưa ra nhưng bị triều Nguyễn bác bỏ. Sau đó, đất nước rơi vào tình trạng lạc hậu, bế tắc và trở thành thuộc địa nửa phong kiến ​​trong gần 100 năm từ 1858 đến 1945.
 
 
Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3/2/1930 là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử Việt Nam. Tháng 8 năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, nhân dân Việt Nam đã tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền thành công và nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời vào ngày 2 tháng 9 năm 1945.
 
 
Nước Việt Nam mới thành lập đã phải trải qua hơn 30 năm đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước. Chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định Giơnevơ năm 1954 đã chấm dứt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Theo Hiệp định, đất nước tạm thời bị chia cắt dọc Vĩ tuyến 17 Bắc thành hai lãnh thổ Bắc Việt Nam và Nam Việt Nam, dự kiến ​​hai năm sau sẽ được thống nhất bằng một cuộc tổng tuyển cử. Nam Việt Nam được cai trị bởi một chính phủ thân Pháp và sau đó là thân Hoa Kỳ tại Sài Gòn. Mặc dù chế độ Sài Gòn đã cố gắng ngăn cản quá trình thống nhất, nhưng đã không khuất phục được các chiến dịch hòa bình và thống nhất đất nước. Kết quả là Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập vào ngày 20 tháng 12 năm 1964.

 

 

Từ năm 1954 đến năm 1975, Việt Nam phải đứng lên giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước. Để ủng hộ chế độ miền Nam Việt Nam, Mỹ đã viện trợ quân sự và hơn nửa triệu quân nhân đến Việt Nam và bắt đầu ném bom miền Bắc Việt Nam vào năm 1964. Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “không có gì quý hơn độc lập, tự do”. , dân tộc Việt Nam đã trải qua muôn vàn gian khổ, hy sinh. Năm 1973, Hiệp định Paris được ký kết nhằm lập lại hòa bình ở Việt Nam và rút quân của Hoa Kỳ.

Chiến tranh kết thúc vào mùa xuân năm 1975 khi các lực lượng vũ trang yêu nước mở cuộc tấn công chống lại chế độ Sài Gòn, giải phóng miền Nam Việt Nam và thống nhất đất nước. Từ đó, nước Việt Nam thống nhất đã mở ra kỷ nguyên mới của hòa bình, thống nhất và xây dựng đất nước. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được đổi tên thành Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam vào ngày 25 tháng 4 năm 1976. Năm 1977, Việt Nam trở thành thành viên của Liên hợp quốc.

 

 

Mười năm đầu thời kỳ sau chiến tranh, nhiều chỉ tiêu kinh tế - xã hội không thực hiện được do nguyên nhân bên trong và bên ngoài. Nền kinh tế Việt Nam rơi vào khủng hoảng và trì trệ. Cuộc sống của mọi người rất khó khăn.
 
 
Tại Đại hội VI của Đảng Cộng sản năm 1986, chính sách Đổi mới (cải cách) được đưa ra với trọng tâm là cải cách kinh tế. Điều này đánh dấu một cột mốc quan trọng trong giai đoạn phát triển mới của Việt Nam. Chính sách Đổi mới đã được tái khẳng định nhất quán trong suốt các kỳ Đại hội Đảng sau này. Trong hơn 20 năm, Việt Nam từ một nước nhập khẩu lương thực đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới. Việt Nam cũng xuất khẩu nhiều mặt hàng khác với các nhãn hiệu nổi tiếng. Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao trong những năm cuối thế kỷ 20 và những năm đầu thế kỷ 21. Đời sống của người dân được cải thiện đáng kể. Hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện, quản lý xã hội dựa trên pháp quyền ngày càng được đặt ra. An ninh, quốc phòng được giữ vững, quan hệ quốc tế ngày càng được mở rộng và đi vào chiều sâu.
 
 
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển của đất nước Việt Nam, lòng yêu nước, ý chí tự lực tự cường, truyền thống đoàn kết, ý chí chiến đấu vì chính nghĩa của dân tộc là những nét đặc trưng, ​​chuẩn mực đạo đức hàng đầu của người Việt Nam. Truyền thống cần cù, sáng tạo, kiên nhẫn bắt nguồn từ cuộc sống đầy gian khổ của dân tộc Việt Nam. Nhu cầu đoàn kết đương đầu với khó khăn, thử thách đã tạo nên sự gắn bó mật thiết giữa con người với thiên nhiên và giữa con người, thể hiện ở gia đình cũng như cộng đồng dù ở cấp gia đình, làng xã hay toàn quốc. Trong suốt chiều dài lịch sử, dân tộc Việt Nam còn mang đặc trưng của truyền thống tương trợ, đạo đức, nhân hậu, chia sẻ khó khăn lúc hoạn nạn, đồng thuận cao, thích ứng và hội nhập nhanh, ứng xử linh hoạt, ham học hỏi, tôn trọng lẽ phải và khoan dung. Đây chính là sức mạnh nội sinh vô tận, mạnh mẽ để dân tộc Việt Nam bắt tay vào sự nghiệp xây dựng đất nước, hướng tới mục tiêu nước mạnh, dân giàu, xã hội công bằng, dân chủ, tiên tiến. /.