Liên kết nhanh
Hỗ trợ trực tuyến
Counselors
+8801770123799
Văn hóa Việt Nam

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Cuộc sống gia đình: Trong xã hội truyền thống của Việt Nam, một gia đình điển hình có ba hoặc bốn thế hệ sống chung dưới một mái nhà. Với quan điểm “càng đông con, càng nhiều phúc”, nhiều gia đình mong muốn đông con, nhiều cháu.

Chịu ảnh hưởng của Nho giáo và quan điểm phong kiến ​​trọng nam khinh nữ, nam giới đóng vai trò quan trọng nhất trong gia đình và luôn có tiếng nói cuối cùng. Đạo đức thời phong kiến ​​hình thành người phụ nữ “tam tòng, tứ đức” (ba điều vâng lời: vâng lời cha khi còn nhỏ, đối với chồng khi lấy chồng và đối với con trai khi ở góa bụa; bốn đức tính: siêng năng, nề nếp, ăn nói đúng mực và đạo đức).

Kể từ sau khi thống nhất, Nhà nước Việt Nam đã thông qua một số văn bản quy phạm pháp luật, trong đó nổi bật là Luật Hôn nhân và Gia đình nhằm làm cho quan hệ gia đình bình đẳng hơn. Các biện pháp khác nhau cũng đã được thực hiện để nâng cao nhận thức của công chúng và thay đổi thái độ lạc hậu, đảm bảo bình đẳng giới và đấu tranh cho quyền lợi chính đáng của phụ nữ. Ngày nay, quy mô gia đình Việt Nam có xu hướng thu hẹp xuống còn hai hoặc ba thế hệ. Hầu hết các cặp vợ chồng chỉ có hai con. Sự cổ vũ cho sự vượt trội của nam giới so với phụ nữ đang suy yếu và dần bị loại bỏ. Tuy nhiên, truyền thống “kính già, yêu trẻ” lâu đời vẫn được duy trì và phát huy trong mỗi gia đình Việt Nam.

 

 

Trang phục: Hầu hết các dân tộc ở Việt Nam đều có trang phục riêng thể hiện bản sắc văn hóa độc đáo của họ. Các trang phục này đều được trang trí bằng hoa văn sặc sỡ với các màu sắc tương phản: đen - trắng, đen - đỏ, xanh đỏ hoặc xanh trắng và được làm từ sợi tự nhiên như sợi gai, tơ tằm, sợi dứa hoặc sợi bông. Những chất liệu này tốt, bền và thấm mồ hôi, phù hợp với khí hậu nhiệt đới.

Trang phục truyền thống của nam giới Việt Nam là quần trắng, áo nâu, đội khăn đóng và đi đôi dép hoặc guốc gỗ thông thường gọi là guốc. Trang phục chính thức của nam giới bao gồm áo dài nhung hoặc bông và khăn xếp.

Đối với phụ nữ, trang phục phức tạp và sặc sỡ hơn với váy đen, áo ba lỗ trắng, áo tứ thân với khăn "mỏ quạ" và thắt lưng giống chim sơn ca. Trang phục chính thức bao gồm ba lớp váy. Đầu tiên là áo tứ thân bằng nhung màu sẫm hoặc nâu nhạt, sau đó là áo dài màu vàng nhạt bên dưới và áo dài màu cánh sen. Khi mặc trang phục này, người phụ nữ chỉ cài cúc dưới nách, phần trên được mở ra để thể hiện ba màu áo dài của họ. Bên dưới ba chiếc váy này là một chiếc áo dài bằng đồng màu đỏ. Họ đội một chiếc nón lá to đặc biệt gọi là “phi”, vừa mang lại vẻ thanh lịch, vừa làm cho người phụ nữ Việt Nam duyên dáng hơn.

Ngày nay, trang phục chính thức của người Việt Nam đã có nhiều thay đổi. Bộ vest đã thay thế trang phục truyền thống của nam giới Việt Nam. Chiếc áo dài hay áo dài được mặc đầu tiên dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát đã được cải tiến để phù hợp hơn với phụ nữ Việt Nam và được sử dụng trong nhiều nghi lễ quan trọng trong năm. Áo dài cách tân là áo dài có đường xẻ đến thắt lưng với hai tà buông xuống đến giữa ống chân. Chiếc váy này thực sự phù hợp với dáng người nhỏ nhắn của người phụ nữ Việt Nam, tôn lên những đường cong tuyệt mỹ tiềm ẩn của cơ thể. Hiện nay, với sự giao lưu ngày càng tăng giữa các nền văn hóa khác nhau, trang phục Việt Nam ngày càng đa dạng và thời trang, thể hiện mức độ hội nhập ngày càng cao, đặc biệt là giới trẻ thành thị.

 

 

Các lễ hội lớn: Lễ hội là hoạt động văn hóa dân gian đặc trưng của các vùng miền trên đất nước Việt Nam. Những lễ hội như thế này mang lại sự bình yên cho trái tim và tâm trí của người Việt Nam, quét sạch những áp lực từ cuộc sống hàng ngày, và đưa họ đến gần hơn với thiên nhiên, đất nước. Là một nước nông nghiệp, hầu hết các lễ hội của Việt Nam được tổ chức vào “thời gian nông nhàn”, đó là mùa xuân và mùa thu. Ngoài ra còn có các lễ hội dân tộc cho tất cả người dân Việt Nam, bao gồm Tết Nguyên đán (Tết Nguyên Đán), Rằm tháng Bảy, Rằm tháng Tám hoặc Lễ hội Giỗ Tổ Hùng Vương.
 
 
 
Tết Nguyên Đán (Tết Nguyên Đán-thường vào cuối tháng Giêng hoặc đầu tháng Hai): Tết Nguyên đán là lễ hội lớn nhất trong số các lễ hội truyền thống của Việt Nam. Đây là thời gian để gia đình quây quần bên nhau, cùng thưởng thức những món ăn truyền thống, thăm hỏi họ hàng, bạn bè, đồng nghiệp và chúc tết. Theo quan niệm của mọi người, Tết là thời khắc kết thúc năm cũ, gói ghém những điều xui xẻo để mở ra một năm mới nhiều cơ hội tốt đẹp. Giao thừa là thời khắc thiêng liêng nhất khi mọi thành viên trong gia đình cùng nhau thờ cúng, tỏ lòng thành kính với thần linh, tổ tiên. Ngoài cúng giao thừa, các nghi thức truyền thống khác như "khách đầu năm", "hái lộc", "lì xì" vẫn còn được thực hiện cho đến ngày nay.
 
 
 
Lễ Vu Lan (Rằm tháng Bảy): Lễ Vu Lan dành cho cha mẹ, ông bà, tổ tiên đã khuất - một truyền thống được tôn vinh thể hiện “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Theo Phật giáo, vào ngày này, linh hồn người chết đến thế giới người sống để cúng dường. Hầu hết các gia đình đều tổ chức nghi lễ thờ cúng tổ tiên. Sau khi kết thúc nghi thức, vàng mã được đốt cho linh hồn của người chết. Rằm tháng Bảy cũng là ngày xá tội vong nhân hay cúng cô hồn người chết. Lễ vật là gạo tẻ, bánh khô, bánh kẹo, hoa quả để cúng cho những vong linh lang thang, không nơi nương tựa.
 
 
 
Rằm tháng Tám (Tết Trung thu): Tết Trung thu (hay còn gọi là Lễ hội ngắm trăng) dành riêng cho những trẻ em rất thích lễ hội vì những món quà sẽ được gửi đi như lồng đèn ông sao, mặt nạ, bánh tráng nướng, v.v. Vào đêm Lễ hội, hầu hết các gia đình đều có mâm cỗ đặc sản để các thành viên quây quần và thưởng ngoạn vẻ đẹp của Mặt trăng. Đặc sản chủ yếu là hoa quả và bánh kẹo được tạo hình giống các con vật. Không khí đêm hội thật vui với tiếng cười nói của trẻ thơ, ánh trăng, đèn lồng, nến các loại. Các trò chơi cũng có sẵn ở nhiều nơi như Múa Lồng Đèn, Múa Lân Sư Rồng, v.v.
 
 
 
Lễ hội thờ cúng các Vua Hùng: Ngày 10 tháng 3 Âm lịch là ngày Giỗ Tổ Hùng Vương. Sự kiện này được tổ chức ở khắp mọi nơi trong và ngoài nước, những nơi có đông cộng đồng người Việt Nam. Lễ kỷ niệm trọng thể được tổ chức tại Phú Thọ, kinh đô đầu tiên của Việt Nam dưới triều Văn Lang và là nơi lập đền thờ 18 vị vua Hùng. Trong sự kiện này, các lễ vật truyền thống được chuẩn bị, bao gồm đèn lồng, nhang, rượu, trầu, cau, nước, bánh Chưng và Ngày (nếp vuông và nếp tròn). Năm 2007, Lễ hội Giỗ Tổ Hùng Vương được công nhận là Quốc khánh.

 

 

Văn học: Văn học Việt Nam từ thuở sơ khai lập quốc đã phát triển với một bản sắc riêng. Là một đất nước đa dân tộc với nhiều nền văn học khác nhau, Việt Nam có nền văn học đa bản sắc.
 
 
 
Văn học truyền thống: bao gồm văn học dân gian, văn học cổ điển Trung Quốc (Hán) và Nôm (chữ viết Việt Nam được cải biên từ chữ viết cổ điển của Trung Quốc). Văn học dân gian ra đời ngay từ thời sơ khai trong quá trình lao động và đấu tranh kiếm sống. Nó được truyền miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác và tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, bao gồm truyện dân gian, thần thoại, sử thi, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện vui, truyện thơ, câu đố và câu đố dân gian, v.v. Văn học: Chữ viết cổ điển của Trung Quốc lần đầu tiên được sử dụng ở Việt Nam trong thời kỳ đầu Bắc thuộc.
 
Sau khi giành được độc lập dân tộc năm 938, các chế độ phong kiến ​​Việt Nam với tinh thần độc lập cao đã phát triển nền văn học của mình và sử dụng chữ Hán làm phương tiện lưu truyền. Có một số kiệt tác cổ điển của Trung Quốc được bảo tồn cho đến ngày nay. Trong số đó có bài thơ Thần của Lý Thường Kiệt, Tuyên cáo các tướng lĩnh và binh lính của Trần Hưng Đạo, và Đại Việt sử ký toàn thư của Lê Văn Hưu.
 
Văn học chữ Nôm: Chữ Nôm được cải biên từ chữ Hán cổ điển. Văn học chữ Nôm xuất hiện lần đầu vào thế kỷ 8, đạt đến đỉnh cao vào thế kỷ 18 và tồn tại đến thế kỷ 20. Những tác phẩm nổi tiếng đến nay vẫn còn, bao gồm Tuyên ngôn đánh giặc Ngô của Nguyễn Trãi, Tuyển tập thơ văn toàn quốc gồm 254 bài thơ của Nguyễn Trãi - Văn nhân thế gia, Hồng Đức quốc ngữ của vua Lê Thánh Tông, Bài thơ Bạch Vân. Tuyển tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Thương vợ của Đặng Trần Côn hay những bài thơ phản ánh khát vọng bình đẳng giới của “Bà chúa thơ Nôm” Hồ Xuân Hương,… Tác phẩm nổi tiếng nhất thời kỳ này là Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du. Ngoài ra, còn có các sách lịch sử viết bằng chữ Nôm như Đại Việt Sử ký Toàn thư của các sử gia nhà Lê của Phan Phu Tiên, Ngô Sỹ Liên và Vũ Quỳnh hay Lịch sử nhà Lê của Lê Quý. Don.
 
 
 
Văn học đương đại: Quốc ngữ (Quốc ngữ) ra đời là nền tảng cho Văn học đương đại hay Văn học hiện đại. Tác phẩm nổi tiếng do các nhà văn như Hồ Biểu Chánh, Hoàng Ngọc Phách, Nguyễn Trọng Thuật, Trương Vĩnh Ký, Tản Đà, Thế Lữ, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Nam Cao, v.v.
 
 
 
Văn học Cách mạng (từ năm 1945): Giai đoạn 1945-1975, văn học Việt Nam phản ánh khát vọng hòa bình, độc lập của dân tộc, kêu gọi nhân dân đứng lên giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước. Từ khi đất nước thống nhất, theo đuổi chủ trương xây dựng “nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, các văn nghệ sĩ Việt Nam đã tìm cách phản ánh các khía cạnh khác nhau của đời sống xã hội trong các tác phẩm của mình và kêu gọi cả nước chung sức xây dựng đất nước Việt Nam đó là “nước mạnh, dân giàu, xã hội công bằng, dân chủ và tiên tiến”. Nền Văn học Việt Nam đã được phát triển nhanh chóng với hàng nghìn nhà văn, nhà thơ và với nhiều hình thức: văn xuôi, thơ, bình văn ... góp phần vào sự phát triển của văn hóa Việt Nam. Các tác phẩm văn học của Việt Nam đã được dịch sang tiếng Anh, Pháp, Trung, Nhật, v.v.

 

 

 

 
Nghệ thuật biểu diễn: Nghệ thuật biểu diễn Việt Nam bao gồm nhiều loại hình như Chèo (sân khấu quần chúng), Tuồng (tuồng), cải lương (cải lương), múa rối nước, ca múa nhạc cung đình, Quan họ (Dân ca hay Tình ca của Bắc Ninh), Châu Văn (hát lễ thờ cúng), ca trù (nghĩa đen là hát thưởng), hát Then của người Thái, hát Lý của người Nam Bộ, v.v. Trong đó, được trình diễn phổ biến nhất. là chèo, tuồng, cải lương, quan họ, múa rối nước, hát lý và hát bội (tinh nhạc) - một loại hình Âm nhạc cung đình.
 
 
 
Ca múa nhạc cung đình: Ca múa nhạc cung đình phát triển mạnh vào thời vua Lê Thánh Tông với nhiều nhánh khác nhau, như Trung Cung Chỉ Nhạc (Nhạc cung đình), Yên Nhạc (Nhạc yến tiệc), Nhã nhạc (Nhạc tinh luyện) và miễu nhạc ( Nhạc chùa Nho), Đại nhạc (đại nhạc), Văn vũ (dân vũ), Võ vũ (vũ quân), v.v ... Vào thời Nguyễn, ca múa nhạc cung đình đạt đến đỉnh cao với điệu múa Bát Đạc trang nghiêm và hấp dẫn nhất. trình diễn trong Lễ dâng vua Nguyễn tại Đàn tế Nam Giao (Đàn Nam Giao). Tuy nhiên, phần lớn các điệu múa cung đình có chức năng cầu chúc cho nhà vua và gia đình hạnh phúc, thịnh vượng và trường thọ và được biểu diễn trong các ngày lễ kỷ niệm của hoàng gia như Múa quạt, Tam tinh Chúc Thọ, Bát tiên hiền, Lục Triết Hóa Mã Đằng và các Lục Cung Hoa Đăng. Nhiều điệu múa và bản nhạc được bảo tồn cho đến ngày nay. Năm 2003, UNESCO đã công nhận Tinh hoa Cung đình Huế là Kiệt tác Di sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại.
 
 
 
Múa rối nước: múa rối nước được cho là xuất hiện đầu tiên vào thời Lý (1009-1225). Thông thường, có nhiều nhân vật (con rối) tham gia vào một vở kịch rối nước. Mỗi nhân vật là một tác phẩm điêu khắc mang hình dáng và tính cách khác nhau. Các con rối được điêu khắc từ gỗ và phủ sơn chống thấm nước. Nhân vật nổi bật là chú trâu Tễu với thân hình bụ bẫm và nụ cười hóm hỉnh. Bị che khuất khỏi khán giả bởi một người mù, những người múa rối đứng ngập sâu trong nước để điều khiển các con rối thông qua các thanh tre và ròng rọc. Phần đệm âm nhạc được cung cấp bởi một bộ trống, trống tocsin và cồng chiêng. Múa rối nước là loại hình nghệ thuật biểu diễn văn hóa dân gian đặc sắc được đông đảo khán giả các nước yêu thích.
 
 
 
Chèo (Nhà hát bình dân): Bắt nguồn từ các điệu múa và âm nhạc dân gian, chèo là một trong những nghệ thuật sân khấu khác biệt nhất của Việt Nam. Theo truyền thống được biểu diễn ở các làng quê, Chèo đã trở thành nghệ thuật sân khấu phổ biến của cư dân đồng bằng Bắc Bộ. Chèo bao gồm múa, hát, âm nhạc và văn học từ các câu chuyện. Một phần trong sức hấp dẫn của Chèo là mặc dù nó dạy các giá trị truyền thống như lòng hiếu thảo, đạo đức tốt, công bằng, nhân từ, dũng cảm và lịch sự, nhưng bản chất nó luôn mang tính châm biếm và chống đối. Chèo có thể khiến khán giả rơi nước mắt hay cười được nhận định là lạc quan, lanh lợi, thông minh và tinh quái, có ý thức nhân văn rõ ràng. Loại hình nghệ thuật này phản ánh khát vọng hạnh phúc và một xã hội hài hòa, nơi các quyền con người được bảo vệ và cái thiện luôn chiến thắng cái ác. Một số vở được yêu thích nhất qua nhiều thế hệ là Quan Âm Thị Kính, Lưu Bình Dương Lễ, Chu Mai Thần, Kim Nham, v.v ... Những vở này được xếp vào hàng quý giá của “sân khấu bình dân” của dân tộc.
 
 
 
Tuồng (hay còn gọi là hát bội): một loại hình nghệ thuật sân khấu cổ điển và bác học nhất của Việt Nam, cũng là một loại hình nghệ thuật biểu diễn truyền thống. Tuồng có nguồn gốc từ sân khấu dân gian của văn học Việt Nam, phát triển từ âm nhạc, ca múa và biểu diễn truyền thống đa dạng. Cuối thế kỷ 18, Tuồng đã phát triển toàn diện về kịch bản văn học và nghệ thuật trình diễn. Ngày nay, tuồng được coi là “quốc hồn, quốc túy” của Việt Nam, thường được so sánh với tuồng của Trung Quốc hay Noh của Nhật Bản.
 
 
 
Cải lương: là một hình thức hát bội truyền thống có nguồn gốc từ đầu thế kỷ 20. Gốc của Cải lương là dân ca Lý và đờn ca tài tử từ đồng bằng sông Cửu Long. Cải lương sử dụng nhiều cách thức biểu diễn và âm nhạc của Tuồng (sân khấu cổ điển). Tương tự như các loại hình nghệ thuật tuồng truyền thống, Cải lương bao gồm các điệu múa, bài hát và âm nhạc. Một dàn nhạc Cải lương bao gồm chủ yếu là guitar phím lõm và guitar hai dây của Việt Nam. Trong số những vở kịch được biết đến nhiều nhất đó là Đời cô Lựu, Tô Ánh Nguyệt, Mộng Hoa Vương (Hoa Vương Hoàng hậu), Nửa Đời Cô Gái, Chim Việt Cảnh Nam (Chim Việt Cành Nam), và Thái Hậu Dương Vân Nga.

 

 

 
Ngành kiến ​​trúc
 
 
Kiến trúc dân gian gồm gỗ, đá, gạch ngói, tre, nứa, lá khá phổ biến ở khắp Việt Nam. Nhà bằng tranh, tre, nứa, lá có ở nhiều vùng nông thôn Việt Nam, còn kiến ​​trúc bằng gỗ thường được thể hiện nhiều nhất ở các chùa, đình làng, nhà ở của các gia đình giàu có trên khắp cả nước. Một số di tích lịch sử nổi tiếng với kiến ​​trúc gỗ là chùa Một Cột, chùa Dâu, chùa Bối Khê, chùa Thái Lạc, chùa Keo, chùa Bút Tháp, chùa Tây Phương, đình Đình Bảng và các ngôi đình cổ ở các thành phố lớn. , đặc biệt ở Hà Nội, Hội An, Huế… Kiến trúc gạch đá thể hiện đặc trưng ở các tháp chùa (tháp Hòa Phong, tháp Báo Thiên, chùa Phổ Minh, chùa Thiên Mụ,…), cổng thành và tường bao. (Cổng thành nhà Hồ, cổng Thành Hà Nội ..), cổng tam quan (cổng tam quan Văn Miếu, cổng tam quan Trấn Vũ, cổng Hiển Nhân), Cột cờ Hà Nội, Ngọ Môn (Buổi trưa) Huế ... Kiến trúc gạch đá cũng chiếm một phần đáng kể trong các đền tháp do người Chăm xây dựng (gọi là đền tháp Chăm) nằm rải rác từ Quảng Nam đến Bình Thuận, nổi bật là Khu di tích lịch sử Mỹ Sơn.
 
 
 
Kiến trúc kiểu nước ngoài: Từ thế kỷ 19, kiến ​​trúc Việt Nam trải qua một sự thay đổi, kết hợp giữa hai trường phái kiến ​​trúc là kiến ​​trúc Châu Âu, Bắc Mỹ và kiến ​​trúc truyền thống Phương Đông. Do đó, Hà Nội, Sài Gòn và Hải Phòng đã có những con phố ô bàn cờ, thuận tiện cho việc đi lại. Nhiều công trình được xây dựng theo phong cách cổ điển Châu Âu như Phủ Chủ tịch, Tòa án Tối cao, Nhà hát Lớn Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Ngoại giao, Tòa nhà Thành phố Sài Gòn, Bưu điện Trung tâm Sài Gòn, một số biệt thự… Sau đó, tại Thế kỷ 19, những nét mới nổi lên trong bức tranh kiến ​​trúc Việt Nam, đó là các nhà thờ Công giáo ở Sài Gòn, Hà Nội, Huế và các giáo xứ địa phương. Điểm đáng chú ý là những nét đặc trưng của đền chùa và kiến ​​trúc truyền thống Việt Nam có thể được tìm thấy trong cả những công trình kiến ​​trúc mang phong cách châu Âu, điển hình nhất là nhà thờ Phát Diệm.
 
 
 
Giai đoạn 1954-1975: Ở miền Bắc Việt Nam, nhiều công trình kiến ​​trúc kiểu Xô Viết, như Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Cung Văn hóa Hữu nghị, ... Ở miền Nam, phong cách kiến ​​trúc Mỹ được chú ý, trong đó nổi bật là Thư viện Khoa học Tổng hợp Hồ Chí Minh. Thành phố và Dinh Độc Lập (nay là Dinh Thống Nhất - Hội trường Thống Nhất)
 
 
 
Trong thời kỳ Đổi mới: Đã có nhiều công trình xây dựng lớn, hiện đại, đa dạng về kiểu dáng như khách sạn, cao ốc văn phòng (Horizon, Hanoi Tower, Sofitel Plaza, New World, Phú Mỹ Hưng, Ciputra, v.v.). Cũng như nhiều nước khác, kiến ​​trúc hiện nay ở Việt Nam nhìn chung bao gồm 4 thành phần chính: thiết kế nội thất, thiết kế kiến ​​trúc, thiết kế quy hoạch đô thị, thiết kế môi trường và quy hoạch khu vực.

 

 

 
Hội họa và điêu khắc
 
 
Tranh dân gian: Có hai loại tranh dân gian: Tranh chúc Tết và Tranh thờ cúng. Tranh dân gian gắn liền với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và thần linh. Để sản xuất hàng loạt, các bức tranh dân gian được thực hiện thông qua phương pháp in khắc gỗ. Chúng trở nên khá phổ biến vào thế kỷ 16, và phát triển ổn định ở mức cao trong thế kỷ 18 và 19. Với phong cách nghệ thuật, kỹ thuật in, vẽ và chất liệu, tranh dân gian có thể được phân thành một số nhãn hiệu khác nhau. Tuy nhiên, ngày nay tranh dân gian hầu như đã lỗi thời. Trong số rất ít các thương hiệu tranh dân gian còn tồn tại được bảo tồn, tranh Đông Hồ vẫn phát triển và có thể tìm thấy ở nhiều nước như Nhật, Pháp, Mỹ ... Đông Hồ là tên một làng nhỏ nằm ven bờ Nam sông Đuống. Sông tỉnh Bắc Ninh. Tranh Đông Hồ được làm nguyên bản, đảm bảo kỹ thuật và thẩm mỹ, mọi mặt từ thiết kế hoa văn, chạm khắc, sản xuất giấy dzô (pơ mu) đều được làm thủ công, phủ bột trắng làm từ vỏ nung), pha màu (làm từ vật liệu tự nhiên) để vẽ và in hình ảnh.
 
 
 
Hội họa hiện đại: Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương được thành lập năm 1924 đánh dấu một mốc quan trọng trong sự phát triển của nghệ thuật tạo hình đương đại tại Việt Nam. Thế hệ họa sĩ đầu tiên tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương và các tác phẩm của họ hiện đã được thế giới biết đến. Nổi bật nhất là “Phố cổ Hà Nội” của Bùi Xuân Phái, “Trò chơi ô vuông” của Nguyễn Phan Chánh, “Cô bé Thủy” của Trần Văn Cẩn, “Thiếu nữ và hoa loa kèn” của Tô Ngọc Vân, “Bên bờ kiếm Hồ ”của Nguyễn Gia Trí và“ Tiễn bạn đi thi ”của Tô Ngọc Vân. Những bức tranh này là những kiệt tác vô giá trong kho tàng văn hóa Việt Nam. tiếp thu tinh hoa mỹ thuật thế giới, mặt khác tìm tòi những phong cách tranh sơn dầu, sơn mài, lụa mới của Việt Nam… Thế hệ họa sĩ này ngày càng nổi tiếng với các tác phẩm của họ, đặc biệt là các tác phẩm của Lưu Công Nhân, Phạm Công Thành, Nguyễn Thụ, Đặng Xuân Hòa và Thanh Chương, v.v.
 
 
 
Điêu khắc cổ: Trong di sản nghệ thuật truyền thống, điêu khắc trải qua quá trình phát triển không ngừng và cung cấp những hình ảnh tiêu biểu của người Việt trên nhiều miền đất nước và ở từng thời kỳ, dù ở dạng thần linh hay người trần thế. Điêu khắc cổ Việt Nam rất đa dạng, nhưng chủ yếu tồn tại sau: Điêu khắc thời tiền sử với các hình tượng điêu khắc trên đá, trong hang động, trên trống đồng và đồ dùng sinh hoạt; điêu khắc của các Vương quốc Phù Nam và Chân Lạp ở Nam phần; Điêu khắc Chăm-pa Nam Trung Bộ; Điêu khắc vĩ đại Việt Nam ở Bắc Bộ và điêu khắc tượng đài của thổ dân Tây Nguyên. Dù trải qua thời gian dài chiến tranh, nhiều vùng miền trên khắp Việt Nam vẫn gìn giữ được rất nhiều ngôi đình, chùa, đền thờ chung của làng xã với nhiều loại tượng Phật.

 

 

 

Thủ công mỹ nghệ truyền thống
 
 
 
Nghề thủ công truyền thống của Việt Nam có lịch sử lâu đời và đa dạng các sản phẩm đã trở nên nổi tiếng trong và ngoài nước. Các sản phẩm gốm sứ, sơn mài, lụa tơ tằm, mây tre đan… của Việt Nam đã có mặt ở nhiều nước. Ngày nay, một số ngành nghề thủ công vẫn được bảo tồn và phát triển, mang lại việc làm, thu nhập cho nhiều lao động và đóng góp vào xuất khẩu như gốm sứ, dệt lụa, sơn mài, mây tre đan, nón lá, nung, chế biến gỗ ...
Trong số các nghề thủ công truyền thống, trong đó nổi bật nhất là gốm sứ cung cấp nhiều loại sản phẩm đáp ứng nhu cầu dân dụng và công nghiệp. Các sản phẩm gốm sứ được sản xuất ở nhiều địa phương trên khắp Việt Nam, chẳng hạn ở các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh, Quảng Bình, Đồng Nai, Đồng Tháp và làng Bát Tràng ở Hà Nội, và còn có gốm Chăm.
 
Nghề dệt lụa tơ tằm ra đời từ rất sớm trên khắp đất nước Việt Nam, nhưng ngày nay các làng nghề dệt lụa được biết đến nhiều nhất là Vạn Phúc (Hà Đông, Hà Tây) và Phương Tánh - Trực Ninh (Nam Định). Ngay từ thế kỷ 15, lụa Việt Nam đã xuất hiện trên thế giới thông qua các thương nhân. Nghề đan mây, tre có truyền thống hàng nghìn năm. Nghề thủ công này liên kết chặt chẽ với sự sẵn có của những nguyên liệu tự nhiên này ở tất cả các vùng trên khắp Việt Nam. Những người thợ thủ công Việt Nam đã khéo léo sản xuất ra rất nhiều đồ nội thất có kiểu dáng đẹp và duyên dáng như bàn ghế, giường tủ, khay hoa quả, giỏ hoa ... Trong số các địa phương nổi tiếng về sản phẩm đó là tỉnh Hà Tây và Thanh Hóa.