Liên kết nhanh
Hỗ trợ trực tuyến
Counselors
+8801770123799
Kinh tế Việt Nam

 

Sự phát triển của Việt Nam trong hơn 30 năm qua rất đáng chú ý. Những cải cách kinh tế và chính trị dưới thời Đổi mới, được thực hiện vào năm 1986, đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, biến nơi khi đó là một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới thành một quốc gia có thu nhập trung bình thấp hơn. Từ năm 2002 đến 2018, GDP bình quân đầu người tăng 2,7 lần, đạt hơn 2.700 đô la Mỹ vào năm 2019 và hơn 45 triệu người đã thoát khỏi đói nghèo. Tỷ lệ nghèo đói giảm mạnh từ hơn 70 phần trăm xuống dưới 6 phần trăm (3,2 đô la Mỹ / ngày theo PPP). Phần lớn những người nghèo còn lại của Việt Nam - 86% - là người dân tộc thiểu số.
 
Năm 2019, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục thể hiện sức mạnh và khả năng phục hồi cơ bản, được hỗ trợ bởi nhu cầu trong nước mạnh mẽ và sản xuất hướng tới xuất khẩu. GDP thực tế ước tính tăng 7% vào năm 2019, tương tự như năm 2018, một trong những tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trong khu vực.
 
Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng với nền kinh tế toàn cầu, nền kinh tế Việt Nam chịu nhiều tác động nặng nề từ đại dịch COVID-19 đang diễn ra, nhưng đã thể hiện được khả năng phục hồi đáng kể. Ảnh hưởng sức khỏe ban đầu của đợt bùng phát không nghiêm trọng ở Việt Nam như các nước khác do các biện pháp chủ động ở cấp quốc gia và địa phương. Khuôn khổ kinh tế vĩ mô và tài khóa vẫn được duy trì ổn định với tốc độ tăng trưởng GDP ước tính là 1,8% trong nửa đầu năm 2020, dự kiến ​​đạt 2,8% cho cả năm. Việt Nam là một trong số ít quốc gia trên thế giới không dự báo suy thoái, mặc dù tốc độ tăng trưởng của nước này trong năm nay thấp hơn nhiều so với dự báo trước khủng hoảng 6-7%. Tuy nhiên, khó có thể dự đoán được tác động của cuộc khủng hoảng COVID-19 đang diễn ra với sự không chắc chắn xung quanh mức độ và thời gian của nó. Các yêu cầu về tài chính công sẽ tăng lên do doanh thu thấp hơn và chi tiêu cao hơn do gói kích cầu được đưa ra nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực của đại dịch đối với các hộ gia đình và doanh nghiệp.
 
Nhờ các nguyên tắc cơ bản mạnh mẽ và giả định kiểm soát tương đối đại dịch COVID-19 cả ở Việt Nam và thế giới, nền kinh tế Việt Nam sẽ phục hồi vào năm 2021. COVID-19 cũng cho thấy sự cần thiết phải cải cách mạnh mẽ hơn để giúp nền kinh tế phục hồi trong trung hạn, chẳng hạn như cải thiện môi trường kinh doanh, thúc đẩy nền kinh tế số, nâng cao hiệu lực và hiệu quả đầu tư công, là một số chương trình nghị sự chính mà Việt Nam cần xem xét để có các hành động cải cách mạnh mẽ và nhanh hơn.
 
Việt Nam đang trải qua sự thay đổi nhanh chóng về nhân khẩu học và xã hội. Dân số của nó đạt 96,2 triệu vào năm 2019 (tăng từ khoảng 60 triệu năm 1986) và dự kiến ​​sẽ tăng lên 120 triệu vào năm 2050. Theo Báo cáo điều tra dân số năm 2019, 55,5% dân số dưới 35 tuổi, có tuổi thọ tuổi thọ 76 tuổi, cao nhất so với các nước trong khu vực ở mức thu nhập tương đương. Nhưng dân số đang già đi nhanh chóng. Và tầng lớp trung lưu mới nổi của Việt Nam, hiện chiếm 13% dân số, dự kiến ​​sẽ đạt 26% vào năm 2026.

 

 

 

Từ năm 2010 đến năm 2020, Chỉ số vốn con người của Việt Nam tăng từ 0,66 lên 0,69. Một đứa trẻ Việt Nam được sinh ra ngày hôm nay sẽ có năng suất 69% khi lớn lên nếu được hưởng nền giáo dục đầy đủ và sức khỏe đầy đủ. Chỉ số HCI của Việt Nam là cao nhất trong số các nước có thu nhập trung bình, nhưng có một số chênh lệch trong nước, đặc biệt là đối với các dân tộc thiểu số. Cũng cần phải nâng cấp các kỹ năng của lực lượng lao động để tạo ra các công việc hiệu quả ở quy mô lớn trong tương lai.
 
Kết quả sức khỏe được cải thiện song song với mức sống ngày càng nâng cao. Từ năm 1993 đến năm 2017, tỷ suất chết trẻ sơ sinh dưới 1 tuổi giảm từ 32,6 xuống còn 16,7 (trên 1.000 trẻ đẻ sống). Từ năm 1990 đến năm 2016, tuổi thọ trung bình đã tăng từ 70,5 lên 76,3 tuổi, và là mức cao nhất trong khu vực đối với các quốc gia có mức thu nhập tương tự. Chỉ số bao phủ sức khỏe toàn dân của Việt Nam ở mức 73 - cao hơn mức trung bình của khu vực và toàn cầu - với 87% dân số được bao phủ. Tuy nhiên, tỷ số giới tính khi sinh cao và ngày càng gia tăng (năm 2018 là 115) cho thấy sự phân biệt giới tính cơ bản vẫn còn. Đồng thời, Việt Nam là một trong những quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất và nhóm tuổi 65+ dự kiến ​​sẽ tăng 2,5 lần vào năm 2050.
 
Trong 30 năm qua, việc cung cấp các dịch vụ cơ bản đã được cải thiện đáng kể. Khả năng tiếp cận các dịch vụ cơ sở hạ tầng của các hộ gia đình đã tăng lên đáng kể. Tính đến năm 2016, 99% dân số sử dụng điện làm nguồn chiếu sáng chính, tăng từ chỉ 14% năm 1993. Khả năng tiếp cận nước sạch ở các vùng nông thôn cũng được cải thiện, tăng từ 17% năm 1993 lên 70% năm 2016, trong khi con số đó ở khu vực thành thị là trên 95%. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, đầu tư vốn vật chất tính theo phần trăm GDP của Việt Nam thuộc nhóm thấp nhất trong khu vực ASEAN. Điều này sẽ tạo ra những thách thức đối với sự tăng trưởng liên tục của các dịch vụ cơ sở hạ tầng hiện đại cần thiết cho giai đoạn tăng trưởng tiếp theo (Việt Nam đứng thứ 89 trong số 137 quốc gia về chất lượng cơ sở hạ tầng).
 
Tốc độ phát triển và công nghiệp hóa nhanh chóng của Việt Nam đã có những tác động bất lợi đến môi trường và tài sản thiên nhiên. Tiêu thụ điện đã tăng gấp ba lần trong thập kỷ qua, tăng nhanh hơn sản lượng. Do sự phụ thuộc ngày càng nhiều vào nhiên liệu hóa thạch, bản thân ngành điện chiếm gần 2/3 lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính của đất nước. Cần phải đẩy nhanh quá trình chuyển đổi năng lượng sạch. Trong hai thập kỷ qua, Việt Nam đã nổi lên là quốc gia phát thải khí nhà kính bình quân đầu người tăng nhanh nhất trên thế giới - tăng khoảng 5% mỗi năm. Nhu cầu sử dụng nước tiếp tục tăng, trong khi năng suất sử dụng nước thấp, khoảng 12% so với tiêu chuẩn toàn cầu. Khai thác không bền vững các tài sản tự nhiên như cát, thủy sản và gỗ có thể ảnh hưởng tiêu cực đến triển vọng tăng trưởng dài hạn. Kết hợp vấn đề là thực tế rằng phần lớn dân số và nền kinh tế của Việt Nam rất dễ bị tổn thương bởi các tác động của khí hậu.
 
Đô thị hóa và tăng trưởng kinh tế và dân số mạnh mẽ đang gây ra những thách thức về quản lý chất thải và ô nhiễm ngày càng gia tăng nhanh chóng. Lượng chất thải phát sinh ở Việt Nam dự kiến ​​sẽ tăng gấp đôi trong vòng chưa đầy 15 năm. Liên quan đến vấn đề này là vấn đề về nhựa hàng hải. 90% ô nhiễm nhựa trên biển toàn cầu ước tính chỉ đến từ 10 con sông trong đất liền, và sông Mekong là một trong số đó. Việt Nam nằm trong số 10 quốc gia trên thế giới bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi ô nhiễm không khí. Ô nhiễm nước gây ra chi phí đáng kể đối với năng suất của các ngành chính và sức khỏe con người.
 
Chính phủ đang nỗ lực để giảm thiểu tác hại của môi trường đối với sự tăng trưởng của đất nước, đồng thời giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu một cách hiệu quả. Các chiến lược và kế hoạch chính để kích thích tăng trưởng xanh và sử dụng bền vững các tài sản tự nhiên của nó đã được áp dụng. Chính phủ cũng đang thực hiện các biện pháp giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu và giải quyết các hiện tượng thời tiết cực đoan và thiên tai bằng cách thực hiện Đóng góp do Quốc gia xác định (NDC).

 

Main Indicators

2018

2019

2020 (e)

2021 (e)

2022 (e)

GDP (billions USD)

304.02

329.54e

340.60

369.49

404.91

GDP (Constant Prices, Annual % Change)

7.1

7.0

1.6

6.7

7.4

GDP per Capita (USD)

3

3

3

3

4

General Government Gross Debt (in % of GDP)

43.6

43.4

46.6

47.1

47.2

Inflation Rate (%)

3.5

2.8

3.8

4.0

4.0

Unemployment Rate (% of the Labour Force)

2.2

2.2

3.3

2.7

2.4

Current Account (billions USD)

5.77

11.26

3.96

6.19

3.59

Current Account (in % of GDP)

1.9

3.4

1.2

1.7

0.9